Kiếp sau
Phan_10
-Tôi phải liên lạc với Peter, để cậu ta giới thiệu tôi với một phòng thí nghiệm nào đó ở Anh.
Jonathan nhìn đồng hồ đeo tay, đã gần giữa trưa theo giờ Luân-đôn và gần 7 giờ sáng bên bờ biển phía đông nước Mỹ.
-Có thể giờ này cậu ấy còn chưa dậy !
* * *
Peter quờ tay tìm xem từ đâu phát ra tràng âm thanh khó chịu khiến anh không thể tiếp tục giấc ngủ. Anh gỡ băng che ánh sáng ra khỏi mắt, với cánh tay qua khuôn mặt ngái ngủ của cô gái tên là Anita, nhấc điện thoại lên và gầm gừ:
-Cho dù là anh có là ai đi chăng nữa, thì anh cũng vừa để mất một người thân!
Rồi anh dập máy.
Một vài giây sau, chuông điện thoại lại reo vang, Peter chui mình ra khỏi lớp chăn dày.
-Đồ quấy rầy bướng bỉnh! Ai ở đầu dây thế?
-Tớ đây, Jonathan bình thản đáp.
-Cậu có biết bây giờ là mấy giờ không , hơn nữa hôm nay lại là chủ nhật đấy.
-Thứ 3, Peter, hôm nay là thứ 3!
-Khỉ thật, tớ chẳng còn biết gì về thời gian nữa.
Trong khi Jonathan giải thích yêu cầu của anh, Peter nhẹ nhàng lay cô gái nằm bên cạnh. Anh thì thầm vào tai Anita rằng cô phải chuẩn bị thật nhanh, anh đã bị muộn lắm rồi.
Anita nhún vai và ngồi dậy, Peter kéo lấy cánh tay cô và hôn nhẹ lên trán.-Anh sẽ chở em về nhà nếu em sẵn sàng sau 10 phút nữa.
-Cậu có nghe tớ nói không? Jonathan hỏi từ đầu dây bên kia.
-Thế cậu còn muốn tớ nghe ai nữa đây?Nhưng thôi cứ nhắc lại điều cậu vừa nói đi, ở đây vẫn còn sớm lắm.
Jonathan đề nghị bạn giới thiệu mình với một phòng thí nghiệm tại Anh.
-Muốn soi bức tranh bằng X-quang, tớ có một người bạn, cậu có thể gọi anh ta và tự giới thiệu là bạn của tớ, phòng thí nghiệm của anh ấy ở khá gần khách sạn.
Jonathan ghi vội lên giấy địa chỉ mà Peter đọc cho anh.
-Còn muốn làm các xét nghiệm hữu cơ, Peter nói tiếp, để tó gọi vài cuộc điện thoại đã.
-Tớ có thể cho cậu cả ngày, có điều tớ phải nhắc để cậu nhớ rằng, thời gian của cậu đang bị rút ngắn dần.
-Cám ơn cậu đã nhắc khi tớ vừa nhảy ra khỏi giường, tớ đã cảm thấy rõ ràng còn thiếu thứ gì đó để có thể bắt đầu một ngày tốt lành!
Peter đã gần như hoàn thành việc sắp xếp mớ tài liệu mang từ Luân-đôn về. Sau khi ngồi hàng giờ liên trong phòng lưu trữ của Christie’s, anh đã chụp được rất nhiều bài báo được viết trong thời gian Radskin sống ở nước Anh.
Sau khi đọc xong tất cả những tài liệu đó, anh sẽ viết một bài tổng hợp tất cả những thông tin liên quan đến buổi đấu giá nổi tiếng của Ngài Edward, đúng vào hôm bức tranh đột nhiên biến mất.
-Chúng ta phải tìm hiểu xem vì sao nó lại mất tích.
-Cậu làm tớ vững tâm ghê, chúng ta đã tìm kiếm điều ấy từ 20 năm nay, chắc chắn tớ sẽ thành công trong việc làm sáng tỏ bí ẩn này chỉ trong vòng 15 ngày tới, Peter chua chát trả lời.
-Cậu có nhớ anh bạn cảnh sát của cậu đã từng nói gì không? Jonathan hỏi tiếp.
-Tớ có khối bạn làm cảnh sát, cậu thử hỏi cụ thể hơn được không?
-Cái anh chàng cảnh sát sống ở San Francisso ấy!
-À, Georges Pilguez!
-Cậu đã hàng trăm lần nhắc với tớ trong quá trình chúng mình điều tra, là chỉ cần một manh mối nhỏ cũng có thể lần ra được cả một sự kiện.
-Tớ nghĩ là Pilguez còn nói gì đó hơn thế nữa cơ, nhưng tớ hiểu ý cậu. Tớ sẽ gọi lại cho cậu ,ngay sau khi thu xếp xong việc tiến hành các xét nghiệm.
Anita bước ra khỏi phòng tắm đúng lúc Peter gác máy, cô mặc một chiếc quần jean và một chiếc áo phông bó sát người, đến mức không hề cần đến bàn là mỗi lần giặt xong. Peter ngần ngừ rồi đưa tay cho cô gái để cô kéo anh đứng dậy. Ngay lập tức, cô bị kéo trở giường.
* * *
Jonathan bấm số máy mà Peter vừa đọc cho anh. Vị bác sĩ chẩn đoán hình ảnh hỏi anh về kích thước của bức tranh và đề nghị anh chờ máy.
Một lát sau ông ta cầm máy lên, Jonathan đã gặp may, ông ta còn đúng hai khung phim có kích cỡ phù hợp.
Buổi hẹn vào đầu giờ chiều. Clara và Jonathan nhìn nhau ngập ngừng rồi lao vào đóng gói bức tranh. Mặc dù đã ra sức tìm, song cũng không thể thấy cả thùng gõ lẫn xe bảo an, họ đành nhảy lên một chiếc ta-xi, đến con phố nhỏ nằm giữa góc công viên Lane và phố Green .Họ nhấn chuông, một giọng nói đề nghị khách đi lên tầng hai.Jonathan lên cầu thang trong tâm trạng hồi hộp pha lẫn tò mò, Clara theo sát sau anh.
Một nữ trợ lý khoác áp blu trắng trở ra mở cửa và dẫn họ vào phòng đợi. Một người phụ nữ mang thai đang chờ kết quả siêu âm tháng thứ 4, một chàng trẻ bị bó bột ở chân đang xem phim kiểm tra lần cuối của mình. Khi nữ bệnh nhân bị quấn băng một bên vai nghi ngờ hỏi Jonathan bị đau chỗ nào, Clara trốn sau một tờ tạp chí Times mà cô nhặt được trên chiếc bàn thấp. Bác sĩ Jack Seasel ló ra từ cánh cửa khép hờ. Ông kín đáo ra hiệu cho Jonathan và Clara. “Một ca cấp cứu”, ông làu bàu giải thích với những bệnh nhân còn lại.
-Nào, hãy cho tôi xem bức tranh tuyệt vời đó! Ông vui vẻ nói trong khi dẫn vào phòng chụp.
Jonathan gỡ những tấm chăn bọc bên ngoài và Jack Seasal, bạn của Peter và cũng là một người say mê hội họa, lặng người đi trước vẻ đẹp của Thiếu nữ áo đỏ.
Peter không hề nói quá, ông vừa nói vừa hạ mặt bàn máy chụp theo chiều ngang. Tôi đang tính sẽ sang Boston thăm cậu ta vào tháng 9 tới, chúng tôi có một hội thảo của nghành y , ông nói tiếp và giúp Jonathan đặt bức tranh vào vị trí.
Vị bác sĩ đánh dấu khu vực chiếu bằng bút dạ. Bằng những động tác tự tin, ông ta nhét khung phim chuẩn bị dùng xuống bên dưới mặt bàn, điều chỉnh máy cho thẳng góc với bề mặt bức tranh và đưa cho hai vị khách hai chiếc tạp dề dát chì, Clara và Jonathan lùi lại sau lớp kính bảo vệ. Bác sĩ Seasal kiểm tra lại máy móc một lần nữa rồi cũng lùi lại bên cạnh chỗ họ đứng. Ông nhấn nút. Những chùm tia quét trên từng lớp bề dày cuả bức tranh để tái hiện trên tấm phim phủ hóa chất một vài bí ẩn được che giấu trong đó.
-Nín thở nhé, tôi chuẩn bị chụp lần thứ 2, ông bác sĩ vừa nói vừa thay cuốn phim.
Ông gỡ một tấm phim chụp xương đùi và một tấm phim chụp phổi bên phải đính trên tấm bảng lắp đèn huỳnh quang, rồi thay hai tấm vừa tráng vào đó. Bản chụp bức tranh của Vladimir hiện lên trong suốt. Đối với tất cả các chuyên gia hoặc các nhà phục chế, chụp một bức tranh quả là giây phút vô cùng đặc biệt. Những tia X thể hiện thấu cả những phần không nhìn thấy được của tác phẩm; chúng cung cấp cho Jonathan những thông tin vô cùng quý giá về chất liệu tấm toan mà Vladimir đã sử dụng. Bằng cách so sánh những tấm phim này với các bức tranh khác của danh họa, anh có thể xác định tấm toan được dùng để vẽ bức tranh Thiếu nữ áo đỏ có cùng kiểu dệt với những tấm toan mà Radskin sử dụng trong thời gian sống ở Anh.
Nhìn kỹ tấm phim chụp, Jonathan chợt lờ mờ phát hiện ra điều gì đó:
-Bác sĩ có thể tắt ánh sáng trong phòng đi được không? Anh thì thầm.
-Đây đúng là những phim chụp duy nhất mà tôi không thể đọc kết quả, Jack Seasal vừa nói vừa lại gần công tắc đèn, song ít nhất tôi cũng mong anh hài lòng về chất lượng các bản chụp.
Gian phòng chìm trong bóng tối, chỉ còn luồng ánh sáng duy nhất phát ra từ bảng đèn huỳnh quang trên tường. Tim của Clara và Jonathan bắt đầu đập cùng một nhịp rộn ràng. Trước cặp mắt sửng sốt của hai người, ở mỗi bên Thiếu nữ áo đỏ hiện lên một lọat những kí tự được viết bằng bút chì.
-Cái gì thế này, ông ta muốn nói gì với chúng ta?
-Tôi chỉ thấy một loạt chữ số và vài chữ cái viết hoa, Clara trả lời bằng một giọng ngạc nhiên không kém.
-Tôi cũng vậy, song nếu tôi có thể xác minh đó là chữ viết của ông ta, thì coi như mình đã tìm được bằng chứng, Jonathan thì thào.
Bác sĩ Seasal khẽ hắng giọng sau lưng họ. Trong phòng đợi , số bệnh nhân ngồi chờ thưa dần, Jonathan cất các bản chụp đi, Clara bọc lại bức tranh lại và họ nồng nhiệt cám ơn bác sĩ. Trước khi ra về, họ hứa sẽ gửi lời chào cuả ông tới Peter ngay khi gọi điện cho anh.
Về tới phòng tranh, họ ngồi quanh chiếc bàn có đèn sáng mà Clara vẫn thường dùng để xem các bản chụp phim. Clara chép lại theo mẫu những kí tự của Vladimir vào cuốn sổ của Jonathan. Anh để cô ngồi đó một mình một lát và ra tìm vài tài liệu trong cặp.
Clara vùng về đánh rơi cuốn sổ lớn gáy lò xo, cô cúi xuống nhặt và lật tìm trang đang viết dở. Chợt cô dừng lại trên một trang , ngón tay vuốt nhẹ trên hình phác thảo khuôn mặt mà cô có thể dễ dàng nhận ra. Jonathan quaytrở lại. Cô đóng nhanh cuốn sổ và đặt nó lên bàn.
Những chữ cái viết hoa mà Vladimir ghi bằng bút chì , trên bề mặt bức tranh không tiết lộ được gì về tác giả của nó. Tuy nhiên, những nỗ lực của ngày hôm đó cũng không phải hoàn toàn vô ích. Jonathan đã phân tích được tấm toan dùng để vẽ bức tranh. Nó hoàn toàn giống hệt tấm toan mà trước kia anh từng nghiên cứu. Mỗi phân vuông của tấm vải được dệt bởi 14 sợi ngang và 14 sợi dọc, tuyệt đối giống với lọai vải mà Ngài Edward cung cấp cho Vladimir. Cả chiếc khung dùng để căng tấm toan cũng vậy. Đến khi trời tối, Jonathan và Clara đóng cửa phòng tranh rồi quyết định dạo bộ trên những con đường yên tĩnh của khu phố.
-Tôi muốn cảm ơn anh vì những gì anh đã làm, Clara nói.
-Chúng ta vẫn còn cách đích rất xa, Jonathan trả lời , hơn nữa chính tôi mới là người phải cám ơn cô.
Trên đường đi, qua những vỉa hè vắng vẻ, Jonathan thú nhận rằng, anh còn cần rất nhiều trợ giúp mới có thể hoàn thành việc này đúng hạn. Mặc dù anh tin chắc bức tranh này là thật, thì cũng cần phải thực hiện nhiều đợt kiểm tra nữa mới khả dĩ có những bằng chứng không thể phủ nhận.
Clara dừng lại dưới ngọn đèn đường và đứng đối diện với anh . Cô mong tìm được những lời thỏa đáng để nói với anh , song có lẽ vào thời điểm này sự yên lặng là những gì thích hợp nhất với họ. Cố hít một hơi rồi tục bước đi. Jonathan cũng lặng thinh. Thêm vài mét nữa, họ sẽ tới trước cửa khách sạn và chia tay nhau dưới mái hiên. Trong khoảnh khắc của đêm , anh những muốn mấy bước chân cuối cùng của họ sẽ kéo dài mãi mãi. Vừa bước đi , cánh tay họ thả sát ngừơi vung lên nhè nhẹ, bàn tay họ gần như chạm vào nhau. Ngón út của Clara mắc vào ngón tay anh, các ngón còn lại đan vào với nhau. Trong màn đêm Luân-đôn, hai bàn tay nhập vào thành một và cơn mê lại bắt đầu tái hiện.
Những ngọn nến lung linh soi sáng phòng đấu giá rộng mênh mông, tất cả các ghế đều đã có người ngồi kín. Đám đàn ông đội mũ cao và đồng phục chen chúc giữa những dãy ghế, đứng len vào mọi góc phòng, nhiều người trong số họ đi cùng với những phụ nữ mặc váy diêm dúa. Trên bục, một người đàn ông đang đứng sau bàn điều khiển phiên đấu giá. Chiếc búa đập xuống báo hiệu kết thúc đấu giá một chiếc bình cổ. Phía sau ông ta, trong những cánh gà nơi Jonathan và Clara đang đứng, mấy người đàn ông mặc áo choàng xám vội vã. Tấm bảng bọc nhung đỏ đính trên một cái trục được quay ra và chiếc bình biến mất khỏi gian phòng. Một nhân viên lập tức nhấc nó khỏi bệ và thay vào đó bằng một tác phẩm điêu khắc.
Người đàn ông lại quay tấm bảng khiến bức tượng đồng hiện ra trước mắt những vị khách tới tham dự đấu giá. Jonathan và Clara nhìn nhau. Đây là lần đầu tiên họ gặp trong cơn mê mà mỗi người đều không biết nguyên nhân. Mặc dù cả hai đều không thể thốt ra một lời nào, song ít nhất họ cũng không bị đau đớn như những lần trước. Trái lại, tay vẫn nắm trong tay ,cơ thể họ dường như tồn vượt qua mọi thời gian. Jonathan bước lại gần Clara , cô nép vào anh, và anh nhận ra làn hương của da thịt cô. Chiếc búa của người điều khiển đấu giá khiến họ chợt giật mình, một bầu không khí yên tĩnh kỳ lạ chợt trùm lên gian phòng. Tấm bảng lại xoay một vòng nữa , bức tượng được lấy ra và một người đàn ông mặc áo choàng xám treolên đó bức tranh mà cả hai người liền nhận ra ngay tức khắc. Nhân viên chấp hành báo tin đến lượt phiên đấu giá một bức tranh lớn của một nhà danh họa Nga. Ông ta cũng thông báo bức tranh này đã được bảo lãnh và hiện đang thuộc bộ sưu tập cá nhân của Ngài Edward Langton, chủ phòng tranh nổi tiếng nhất Luân-Đôn. Một viên thư ký băng qua gian phòng và trèo lên các bục, anh ta đưa chiếc phong bì đang kẹp dưới nách cho nhân viên chấp pháp. Ông này bóc phong thư và nghiêng người chuyển nó cho chuyên gia đấu giá khiến mặt vị này sững lạnh như đóng băng. Ông gọi viên thư ký lại gần và hỏi khẽ vào tai:
- Đích thân ông ta đưa nó cho anh à?
Viên thư ký trịnh trọng gật đầu xác nhận. Lúc ấy, nhà đấu giá hét to ra lệnh cho nhân viên không được bày bức tranh lên nữa, đó là một bức tranh giả. Rồi ông chỉ tay về phía người đàn ông ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Tất cả các cặp mắt đều đổ dồn về phía ngài Edward lúc này vừa đứng bật dậy. Một giọng nói thét to công phẫn, một giọng khác gào lên là lừa đảo, thêm một giọng hỏi ầm lên rằng các chủ nợ sẽ được thanh toán như thế nào,“tất cả chỉ là một trò gian trá”, một giọng nữa gào lên.
Người đàn ông có khổ vai rộng len lỏi dẹp lối giữa đám đông ngày càng khép chặt lại . Cuối cùng ông ta cũng ra đựơc tới những cánh cửa dẫn đến một cầu thang, cố gắng thoảt khỏi đám nhà buôn đang xô nhau đuổi theo, và chạy ra phố. Phía sau ông, gian phòng đấu giá dần trở nên vắng vẻ.
“Nhanh lên, nhanh lên ”, một giọng nói thì thào bên tai Jonathan .Một đôi trai gái chạy qua trước mặt anh, trong tay ôm tác phẩm cuối cùng của Vladimir Radskin được bọc kín trong một tấm chăn. Khi đôi trai gái biến mất sau khán phòng, cơn mê vụt tắt.
Clara và Jonathan nhìn nhau sửng sốt. Trên con phố vắng vẻ , những bóng đèn trên cột thôi không nhấp nháy nữa. Họ chậm rãi ngước đầu lên. Phía trên tòa nhà nơi họ nắm tay nhau, tấm biển bằng đá trắng có khắc hàng chữ “Vào thế kỷ XIX, nơi đây từng là trung tâm đấu giá của Quận Mayfair”.
Chương 07
Peter đóng cánh cửa phòng làm việc đúng vào lúc chuông điện thọại reo vang. Anh quay người lại và nhấn vào nút bật loa. Tổng đài thông báo có ngài Gardner đang chờ máy, anh lập tức tiếp điện thọai.
- Ở chỗ cậu chắc phải muộn lắm rồi, tớ đang chuẩn bị ra về, anh vừa nói vừa đặt chiếc túi xuống chân.
Jonathan thông báo với bạn kết quả cuộc tìm kiếm của anh. Anh đã xác định được phần nền và khung của bức tranh, song không tài nào tìm nổi ý nghĩa những dòng chữ mà nhà danh họa đã giấu sau lớp màu, và anh rất tiếc vì các chữ cái viết hoa cũng không đủ để chính thức xác thực bức tranh. Jonathan đang cần bạn mình giúp đỡ. Những xét nghiệm anh cần thực hiện đòi hỏi phải có các trang thiết bị mà nhiều phòng thí nghiệm tư không dễ có được. Peter chợt nghĩ ra, anh quen một người ở Paris có thể sẽ giúp được họ.
Trước khi bỏ máy, Peter kể về một khám phá của anh trong quá trình nghiên cứu các dữ liệu mang từ Lon don. Một bài báo ra vào tháng sáu năm 1867 mà từ trước tới nay họ chưa hề được đọc, nói về vụ tai tiếng xảy ra trong buổi đấu giá. Nhà báo đó đã không cho biết thêm chi tiết nào khác nữa.
- Người viết có vẻ quan tâm hơn cả tới việc bôi nhọ danh tiếng nhà sưu tầm của cậu, Peter nói.
- Tớ có nhiều lý do để tin rằng bức tranh đã bị đánh cắp đúng vào ngày hôm đó, hay nói đúng hơn là nó bị xóay mất ngay trước khi được người ta công bố, Jonathan trả lời.
- Do ngài Edward làm ư? Peter hỏi
- Không, không phải ông ta là người đã giấu bức tranh trong một tấm chăn.
- Cậu nói gì thế? Peter hỏi.
- Vấn đề này hơi phức tạp, tớ sẽ giải thích cho cậu sau.
- Dù sao đi nữa, Peter nói tiếp, ông ta cũng chẳng được lợi gì nếu làm như thế. Buổi đấu giá đã có thể gia tăng rất nhiều gía trị cho bộ sưu tập của ông ta, tớ bảo cậu với tư cách là một chuyên gia đấu giá đấy.
- Tớ cho rằng gia tài mà ông ta vẫn thường khoe khoan đã khánh kiệt từ trước đó khá lâu, Jonathan kết luận.
Nhưng cậu lấy nguồn tin từ đâu thế? Peter tò mò hỏi.
- Đây là cả một câu chuyện dài, anh bạn ạ, mà tớ cũng chẳng nghĩ là cậu sẽ muốn nghe. Ngài Edward có thể chẳng phải là một tay hào hiệp như tớ và cậu đã từng giả định, Jonathan nói thêm. Thế cậu có tìm được thông tin gì về chuyến đi vội vã của ông ta sang Mỹ không?
- Rất ít. Song cậu nói “vội vã” là đúng. Tớ không biết chuyện gì xảy ra với ông ta song chính bài báo đó kể rằng rất nhiều người đã lục tung căn nhà của ông ta ở London lên vào ngay buổi tối diễn ra cụôc đấu giá. Cảnh sát đã phải giải tán mọi người trước khi họ kịp đốt trụi căn nhà. Còn về ông ta, không bao giờ thấy ông ta xuất hiện nữa.
Ngày hôm trước, Peter đã tới tìm các dự liệu lưu trữ tại khu cảng cổ của Boston. Anh tra danh sách hành khách di cư từ Anh sang vào thời kỳ đó. Một chiếc tàu đi từ Manchester đã ghé Lon don trước khi vượt biển Đại Tây Dương. Nó cập bến vào một ngày khá phù hợp với thời điểm để Ngài Edward có thể lên tàu.
- Thật không may cho chúng ta, Peter tiếp tục, trên tàu chẳng có hành khách nào tên Lanngton cả, tớ đã kiểm tra ba lần rồi, song tớ lại tìm thấy một điều khá thú vị. Có một gia đình khác đã xuống tàu, đăng ký trong danh sách nhập cư vào thành phố với họ Walson.
- Vậy thì có gì là thú vị? Jonathan vừa nói vừa ghi nhanh lên một tờ giấy.Chẳng có gì cả! Cậu sẽ tự mình nói với cô ấy rằng thật xúc động mỗi khi tìm ra được giấu vết nguồn gốc của mình cũng như của một thành viên trong gia đình Walton của Anna, vợ tương lai của cậu, đúng từng chữ một.
Chiếc bút chì đen gãy đôi trong tay Jonathan. Anh lặng đi hồi lâu. Peter gọi anh mấy lần ở đầu dây bên kia, cậu ta nóng ruột nhấn liên tiếp lên nút chuyển mạch, nhưng Jonathan vẫn không hề đáp. Vừa đặt máy nói xuống, Peter vừa tự hỏi làm thế nào mà Jonathan có thể khằng định, bức tranh đã được bọc ngòai bởi một tấm chăn?
* * *
Jonathan và Clara rời London ngay sáng sớm tinh mơ ngày hôm sau. Peter đã sắp xếp cho họ gặp người quen của anh ở Paris vào cuối buổi chiều hôm đó. Chừng nào bức tranh còn chưa được xác thực, thì các hãng bảo hiểm chưa có quyền đòi hỏi nó phải được bảo vệ kỹ càng mỗi lần di dời. Dù sao đi nữa, quãng thời gian ít ỏi còn lại cũng không cho phép họ làm như vậy. Clara đã bọc bức tranh trong một tấm chăn và bảo vệ nó khá cẩn thận bằng một chiếu túi da.
Chiếc ta-xi đưa họ tới sân bay City. Vừa theo sát bước Clara lên cầu thang dẫn đến phòng chờ tầng một, Jonathan vừa say sưa ngắm cô. Trong khi chờ tới giờ máy bay cất cánh, họ ngồi ở một quán cà phê nằm ngay phía trên đường băng. Dán mắt vào lớp kính, họ có thề nhìn thấy những chiếc máy bay phản lực chở khách đều đặn nối đuôi nhau cất cánh. Jonathan đi ra quầy bar lấy nước mát cho Clara. Đứng chống khủyu tay trước quầy,anh chợt nghĩ tới Peter, rồi tới Vladimir và cuối cùng thì tự hỏi điều gì đang lôi cuốn anh trong cuộc đua này. Anh quay trở lại ngồi vào bàn và nhìn Clara.
- Tôi đang tự đặt ình hai câu hỏi, anh nói. Còn cô không nhất thiết phải trả lời tôi.
- Anh cứ bắt đầu hỏi câu thứ nhất đi! Cô vừa nói vừa đưa cốc lên miệng.
- Làm thế nào mà các bức tranh ấy đã tới tay cô?
- Chúng được treo trên tường khi bà tôi mua lại trang viên, nhưng chính tôi đã tìm thấy bức Thiếu nữ áo đỏ.
Rồi Clara kể cô đã tìm thấy bức tranh trong hòan cảnh nào. Vài năm trước, cô quyết định dọn dẹp căn phòng áp mái. Vì tòa nhà đã được xếp hạng nên phải chờ khá lâu mới có được giấy phép hành chính để tiến hành công việc sửa chữa. Khi đơn xin bị từ chối và trả lại, Clara đành bỏ lửng dự định đó. Nhưng tiếng sàn tầng trên kêu kèn kẹt trong đêm luôn ám ảnh cô. Ông Wallace, một thợ mộc trong làng rất quý Clara, đã đồng ý giúp cô bí mật dỡ gỗ sàn ra để thay tòan bộ các thanh tầm, sau đó lắp lại như cũ. Khi bụi phủ lại lên phía trên, thanh ta các di tích lịch sử sẽ không thể nào phát hiện được. Rồi một hôm, người thợ mộc đã tới tìm cô. Cô cần phải đến xem một thứ. Clara đi theo ông lên gian phòng trên tầng xếp. Ông đã tìm thấy một thùng gỗ vuông chiều dài khỏang một mét được giấu kỹ giữa hai thanh tầm. Clara giúp ông lôi chiếc thùng ra khỏi chỗ giấu và đặt lên trên chân mễ. Được bọc ngòai bởi một tấm chăn màu xám, Thiếu nữ áo đỏ hiện ra từ quá khứ và ngay lập tức Clara đã nhận ra tác giả của bức tranh.
Giọng nói từ radio hướng dẫn đã cắt ngang câu chuyện của cô. Máy bay bắt đầu nhận hành khách. Một đôi trai gái đứng hôn nhau ngay trước cửa kiểm sóat. Cô gái lên máy bay một mình. Khi cô đã đi qua cửa kiểm tra an ninh, chàng trai âu yếm đưa tay lên vẫy. Cô gái biến mất trong khung cửa tròn phía cuối hành lang mà bàn tay vẫn còn giữ một lát trên không trung. Jonathan nhình chàng trai đi về phía cầu thang cuốn, đôi vai trĩu buồn. Vẽ tư lự, anh đuổi theo Clara đang đi dần về phía cửa số 5.
* * *
Chiếc phản lực City của hãng hàng không Air France tới Paris sau bốn mươi lăm phút. Mọi giấy tờ của phòng tranh đã giúp họ nhanh chóng qua cửa hải quan mà không gặp khó khăn gì. Jonathan đã đặt hai phòng trong một khách sạn nhỏ nằm cuồi đường Bugeaud. Họ để hành lý ở đó, gởi bức tranh vào két an tòan của khách sạn rồi chờ đến khi chiều xuống. Sylvie Leroy, một cộng tác viên đắt lực của trung tâm nghiên cứu và phục chế trực thuộc các Bảo tàng Pháp, tới gặp họ tại quầy bar của khách sạn khi trời vừa tối. Ba người chọn chỗ ngồi kín đáo bên chiếc bàn đặt dưới gầm cấu thang gỗ. Những bậc thang lên xóay hình trôn ốc dẫn tới một trong những lối vào thư viện. Sylvie Leroy chăm chú nghe Jonathan và Clara, rồi cô theo họ vào phòng khách nhỏ nằm giữa hai căn phòng mà họ đã đặt. Clara mở phéc-mơ-tuya hiệu Tia Chớp của chiếc túi da, tháo bức tranh ra khỏi tấm chăn bọc ngoài và gác lên bệ cửa sổ.
- Bức tranh thật tuyệt vời, nữ nhân viên giám định thì thầm bằng một giọng tiếng Anh rất chuẩn xác.
Sau khi quan sát kỹ bức tranh, cô quay lại ngồi vào ghế bành và nói vẻ bất lực:
- Thật đáng tiếc, tôi không thể giúp gì cho hai người, tôi thành thật xin lỗi. Hôm qua tôi đã giải thích rõ ràng với Peter qua điện thọai. Các phòng thí nghiệm của Louvre chỉ dành phục vụ những bức tranh là đối tượng quan tâm của Bảo tàng Quốc gia. Chúng tôi không bao giờ làm việc cho giới tư nhân. Không có yêu cầu khẩn thiết của một quản đốc bảo tàng, chúng tôi không được phép sử dụng trang thiết bị cho người ngòai.
- Tôi hiểu, Jonathan đáp.
- Còn tôi thì không hiểu nổi, Clara tiếp lời. Chúng tôi từ tận Lon don tới đây, chỉ còn hai tuần nữa, chúng tôi sẽ phải chứng minh được đây là một bức tranh thật, mà ở chỗ cô có mọi trang thiết bị cần thiết.
- Chúng tôi hoàn toàn không liên quan gì tới những vấn đề của thị trường, nghệ thuật, thưa cô, Sylvie nói tiếp.
Nhưng đây là một vấn đề nghệ thuật chứ không phải vấn đề thị trừơng, Clara đáp, giọng cương quyết. Chúng tôi đấu tranh để một tác phẩm lớn của một bức danh họa được công nhận, chứ không phải để phá vỡ kỷ lục của các phòng đấu giá.
Sylvie Leroy khẽ ho và mỉm cười.
- Cô cũng không nên đi quá xa, dù sao Peter cũng là người giới thiệu hai người đến với tôi!
- Clara nói đúng sự thật. Tôi là một chuyên gia thẩm định chứ không phải tay buôn, Jonatha tiếp lời.
- Tôi biết anh là ai, anh Gardner, tiếng tăm của anh thật đáng nể. Tôi rất quan tâm tới các công trình nghiên cứu của anh, một vài trong số đó đã giúp cho tôi khá nhiều. Thậm chí tôi đã tới dự các buổi hội thảo của anh tại Miami. Chính ở đó tôi đã làm quen và dùng một bữa tối khá muộn với anh bạn Peter của anh, chỉ có điều tôi đã không có may mắn gặp được anh. Anh đã về mất rồi.
Sylvie Leroy đứng lên và nắm tay Clara.
- Tôi rất vui mừng được làm quen với hai người, cô nói với Jonathan trong lúc ra khỏi căn phòng.
- Chúng ta làm gì bây giờ? Clara hỏi khi cánh cửa đã khép lại.
- Vì tôi cần phải có một chiếc máy chụp bằng tia hồng ngọai, một máy chiếu cao áp, phổ kế plasma và kính quét hiển vi điện tử, tôi nghĩ rắng đi dạo một vòng Paris có lẽ là điều thích hợp nhất nên làm, tôi biết khá rõ nơi chúng ta tới.
* * *
Chiếc ta-xi chạy khá nhanh trên con đường dọc bờ sông. Từ chân cầu Trocadero nhìn ra, hàng ngàn ngọn đèn nhấp nháy trên tháp Etiffel phản chiếu xuống mặt nước sông Seine. Mái vòm bằng vàng của cung điện Invalides tỏa sáng trong bầu không khí dìu dịu của cung điện Invalides tỏa sáng trong bầu không khí dìu dịu của buổi tối mùa hè. Chíêc xe thả họ dưới chân tòa nhà của bảo tàng Orangerie. Trên quảng trường Concorde, một ông già cô đơn lang thang giữa hai đài phun nước. Từng chùm tia nước phun ra từ miệng các bức tượng. Clara và Jonathan im lặng bước dọc theo bến song. Đi dọc theo bến song. Đi dọc theo phố Tuileries, nhìn những hàng cây hai bên các lối đi dạo, Jonathan chợt nghĩ tới những khu vườn Boboli.
- Khi nào tới Boston, chúng ta sẽ đi dạo cùng nhau dọc theo bờ sông Charles chứ? Clara hỏi.
- Tôi hứa với cô, Jonathan trả lời.
Hai người đi qua Cổng Sư Tử (nguyên tác tiếng Pháp: Porte des Lions) . Dưới chân họ, trong tầng hầm nằm dưới sân Bảo tàng Louvre là những phòng thí nghiệm của trung tâm nghiên cứu và phục chế của Bảo tàng Pháp.
* * *
Sylvie Leroy chuẩn bị bước xuống tầng hầm của ga tàu điện ngầm đúng lúc chuông điện thọai di động của cô reo vang. Cô dừng lại phía trên bậc cầu thang và đưa tay vào túi xách. Khi cô bật máy, Peter cao giọng hỏi cô đang làm gì khi không có anh bên cạnh trong cái thành phố lãng mạn nhất thế giới này.
* * *
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian